BỆNH NHIỄM TRÙNG VIRUS DƯỚI DA VÀ HOẠI TỬ (Infectious hypodermal ADN haematopoietic necrosis virus - IHHNV) |
|||||||||||||||||||||||||
Ts. Bùi Quang Tề Viện Nghiên cứu Nôi trồng Thủy sản I |
|||||||||||||||||||||||||
1. Tác nhân gây bệnh Tác nhân gây bệnh nhiễm trùng virus dưới da và hoại tử là giống Parvovirus, cấu trúc acid nhân là ADN, đường kính 22 nm (hình 51). Virus ký sinh trong nhân tế bào tuyến anten, tế bào hệ bạch huyết, tế bào mang, tế bào dây thần kinh, không có thể ẩn (occlusion body) mà có thể vùi (inclusion body), chúng làm hoại tử và sưng to nhân vật chủ. |
|||||||||||||||||||||||||
2. Dấu hiệu bệnh lý - Tôm nhiễm bệnh IHHNV thường hôn mê, hoạt động yếu, chủy biến dạng (hình 52). Tôm sú (Penaeus monodon) bị bệnh lúc sắp chết thường chuyển màu xanh, cơ phần bụng màu đục. Tôm chân trắng (P. vannamei) thể hiện hội chứng dị hình còi cọc, tôm giống (Juvenil) chủy biến dạng, sợi anten quăn queo, vỏ kitin xù xì hoặc biến dạng. Hệ số còi cọc trong đàn tôm giống chân trắng bị bệnh IHHNV thường từ 10-30%, khi bị bệnh nặng hệ số còi cọc lớn 30% có khi tới 50%. Tôm P. stylirostris bị bệnh dạng cấp tính, tỷ lệ chết rất cao, virus bệnh lây từ mẹ sang ấu trùng (phương thẳng đứng) nhưng không phát bệnh, thường đến postlarvae 35 dấu hiệu bệnh quan sát là tỷ lệ chết cao, virus lây lan theo chiều ngang ở tôm giống ảnh hưởng rất mãnh liệt, tôm trưởng thành đôi khi có dấu hiệu bệnh hoặc chết. - Kiểm tra mô bệnh học tế bào tuyến anten, tế bào dây thần kinh và tế bào mang của tôm nhiễm bệnh IHHNV, có thể vùi trong nhân tế bào. Thời kỳ đầu thường nhỏ nằm ở trung tâm của nhân, sau lớn dần nằm gần kín nhân (bắt màu Eosin màu đỏ đến đỏ xẫm- Hình 1). Trong thể vùi có chứa nhiều virus. |
Hình 1: virus của IHHNV đường kính 22nm ở trong hệ bạch huyết của tôm sú nuôi trong ao ương (ảnh KHVĐT) |
||||||||||||||||||||||||
3. Phân bố và lan truyền bệnh Bệnh IHNNV được phát hiện ở Mỹ trong đàn tôm chân trắng (Penaeus vannamei), còn gọi là hội chứng dị hình còi cọc của tôm chân trắng Nam Mỹ. Bệnh xuất hiện từ giai đoạn postlarvae đến tôm trưởng thành. Tỷ lệ chết của tôm P. stylirostris rất cao. Bệnh xuất hiện cả ở Singapore, Philippines, Thái Lan, Indonesia và Malaysia Bệnh IHHNV lan truyền cả chiều đứng và chiều ngang, virus có thể truyền từ tôm bố mẹ sang tôm ấu trùng hoặc lây nhiễm ở giai đoạn sớm của ấu trùng tôm. ở Việt Nam qua phân tích mô bệnh học gan tuỵ của tôm sú P.monodon Minh Hải, Sóc Trăng xuất hiện các thể vùi ở nhân tế bào tuyến anten của tôm sú (Bùi Quang Tề, 1994) nhưng tỷ lệ nhiễm virus thấp. Tôm sú và tôm chân trắng (P. vannamei) nuôi ở Quảng Ninh chẩn đoán bằng test PCR cho thấy tôm đã nhiễm bệnh IHHNV, tôm nuôi chậm lớn và không đều, tỷ lệ tôm còi 20-50% (Bùi Quang Tề, 2004). |
|||||||||||||||||||||||||
Bảng 1: Những loài tôm nhiễm bệnh IHHNV: (theo V. A. Graindorge & T.W. Flegel, 1999
|
Hình 2: A,B- Tôm chân trắng bị bệnh IHHNV chủy biến dạng; C- tôm chân trắng bị bệnh anten bị quăn queo |
|
Hình 3: Các thể vùi (è) trong nhân tế bào tuyến anten của tôm sú nhiễm bệnh IHHNV |
|
4. Chẩn đoán bệnh - Dựa vào dấu hiệu bệnh lý. - Quan sát mô bệnh học tế bào tuyến anten, tế bào mang của tôm trên tiêu bản cắt mô, nhuộm màu Hematoxilin và Eosin. Thể vùi trong nhân tế bào tuyến anten, tế bào mang bắt màu đỏ hoặc đỏ xẫm gần kín nhân tế bào. - Chẩn đoán bằng phương pháp PCR 5. Phòng bệnh Tương tự như bệnh MBV, Đầu vàng. |