KỸ THUẬT NUÔI BÀO NGƯ
Ts. Trương Quốc Phú
Bộ môn Thủy sinh học ứng dụng, Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ
Bào ngư là loài có giá trị kinh tế bởi vì hàm lượng dinh dưỡng trong thịt của chúng rất cao. Bào ngư có khoảng gần 100 loài, tất cả đều thuộc giống Haliotis. Chùng có mặt ở nhiều vùng trên trái đất, một số loài hiện nay đang được nuôi như Haliotis disversicolor, H. asinina, H. oliva...
Hình 1: Hình dạng của Bào ngư (Haliotis)
I. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC.
1. Phân bố.
Các loài Bào ngư phân bố rộng khắp thế giới nhưng chúng phát triển phong phú về số lượng ở vùng ôn đới. Bào ngư thích sống ở vùng biển cạn, môi trường nước xáo động mạnh và hàm lượng oxy hòa tan cao. Vì vậy, chúng thường phân bố ở nền đáy cứng, trên các mõm đá. Bào ngư không phân bố ở các vùng cửa sông bởi vì cửa sông nồng độ muối thấp, có nhiều bùn, nhiệt độ cao và oxy hòa tan thấp. Bào ngư thích nghi trong khoảng nhiệt độ từ 10-35oC và nồng độ muối từ 25-35%o.
Ở Việt Nam Bào ngư phân bố ở đảo Cô Tô, Hạ Long, các đảo ở Bắc và Trung Bộ. Ở Nam Bộ Bào ngư có ở đảo Phú Quốc.
2. Phương thức sống.
Phương thức sống của Bào ngư có liên quan đến cấu tạo của chân. Bào ngư dùng chân để bò từ nơi này đến nơi khác giống như những loài ốc khác. Nhưng chân của Bào ngư không thích hợp để bò hoặc bám trên cát. Trên mặt cát chùng dể bi lật ngửa và dể bị địch hại tấn công. Vì vậy, chỉ thấy Bào ngư phân bố ở vùng đáy đá.
Khi gặp kẻ thù, Bào ngư dùng chân bám chặt trên đá và hạ thấp vỏ xuống để che đậy phần cơ thể và chân. Chân của bào ngư có thể bám chắc trên đá, khi chúng nhận thấy bị đe đọa thì chúng bám rất chắc và khó có thể tách chúng ra khỏi mặt đá.
Bào ngư sợ ánh sáng nên chúng thường ẩn nấp trong các hốc đá vào ban ngày và ban đêm thì bò ra để tìm mồi.
3. Thức ăn.
Bào ngư là loài ăn thực vật. Thức ăn của Bào ngư thay đổi theo giai đoạn phát triển. Trong giai đoạn đầu của chu kỳ sống thì ấu trùng của Bào ngư sống trôi nổi. Chúng dường như không ăn trong giai đoạn ấu trùng. Ở Mỹ người ta đã thành công ương ấu trùng trong nước vô trùng (sterile water). Tuy nhiên, theo qui trình truyền thống của Nhật Bản thì ấu trùng Bào Ngư được ương trong môi trường có cung cấp tảo sống và cho kết quả tốt hơn. Một nghiên cứu khác cho rằng ấu trùng có thể hấp thu chất dinh dưỡng trực tiếp từ môi trường ngoài cho hoạt động sống của chúng.
Khi kết thúc giai đoạn ấu trùng phù du chúng chuyển sang sống bám. Ấu trùng bám dùng lưỡi sừng để cạp các tảo san hô (coralline) hoặc lớp chất nhầy trên bề mặt đá (slime) lấy thức ăn. Chất nhầy trên mặt đá bao gồm các tảo đơn bào và vi khuẩn tạo thành.
Giai đoạn trưởng thành thức ăn của Bào ngư là rong biển (seaweed). Bào ngư thích ăn rong đỏ (red algae), loại rong nâu (brown algae) và vài loại rong lục (green algae).
Nhiệt độ có ảnh hưởng đến cường độ bắt mồi của bào ngư. Ở 8oC bào ngư không bắt mồi, 12oC bào ngư ăn với lượng thức ăn là 6% trọng lượng cơ thể, 20oC bào ngư ăn với lượng bằng 15% trọng lượng cơ thể.
Bào ngư ăn nhiều rong nâu Laminaria (53%), một ít rong lục (6% Ulva, 2% Porphyra). Bào ngư bắt mồi tích cực về đêm, đặc biệt là lúc mặt trời sắp lặn và sắp mọc.
4. Sinh Trưởng
Bào ngư sinh trưởng tương đối chậm, bào ngư Vành tai (Haliotis asinina) đạt 3,5cm sau 6 tháng, 55cm trong 1 năm và 7,5 cm trong 3 năm. Bào ngư Nhật (H. discus) đạt 3 cm trong năm đầu, 5,5 cm, 7,5 cm và 9,5 cm cho năm thứ 2, 3 và măm thứ 4.
Bào ngư sinh trưởng đều, không thay đổi tỉ lệ hình học theo thời gian (b=3). Các yếu tố di truyền, môi trường, thức ăn... ảnh hưởng đến sinh trưởng của bào ngư.
5. Sinh sản.
Bào ngư phân tính đực, cái riêng biệt và chúng ta có thể phân biệt dựa vào màu sắc của chúng trong mùa sinh sản. Con cái thường có màu xanh đen, con đực có màu vàng. Trứng của Bào ngư thụ tinh ngoài, cho nên tỉ lệ thụ tinh rất thấp. Tuy nhiên Bào ngư cũng có một tập tính sinh sản đặc biệt nhằm làm tăng tối đa khả năng gặp nhau giữa tinh trùng và trứng. Khi sinh sản chúng thường tập trung thành từng đàn trên trong một nơi với mật độ cao, như vậy đảm bảo trứng có cơ hội thụ tinh cao.
Trong tự nhiên Bào ngư thường thành thục sinh dục ở một thời điểm nhất định trong năm. Thí dụ ở Australia loài Bào ngư Haliotis rubra (blacklip abalone) thành thục vào cuối mùa hè đầu mùa thu, thời gian còn lại trong năm thì không thành thục. Ở Việt nam Bào ngư thường thành thục từ tháng 4-8. Bào ngư khoảng 2 tuổi có thể thành thục tham gia sinh sản lần đầu.
Bào ngư thường đẻ vào lúc chiều tối và rạng sáng, con đực thường phóng tinh trước sau đó con cái mới đẻ trứng. Sản phẩm sinh dục cũng có vai trò kích thích các cá thể khác trong quần thể sinh sản.
Tế bào trứng có đường kính khoảng 150-180mm (H. asinina), trứng chưa chín khi đẻ ra sẽ không có màng tế bào hay màng keo (không thụ tinh). Tinh trùng có đầu hình lưỡi mác, đuôi dài 8-50 mm và có khả năng thụ tinh trong 2 giờ sai khi được phóng thích ra môi trường nước, trứng bắt dầu phân cắt 10 phút sau thụ tinh. Trứng bào ngư phân cắt hoàn toàn không đều theo kiểu xoắn ốc.
II. KỸ THUẬT NUÔI.
Trong nghề nuôi Bào ngư giống được cung cấp chủ yếu từ hai nguồn, giống tự nhiên và giống nhân tạo:
1. Giống tự nhiên.
-
Dụng cụ, thiết bị: dụng cụ để chứa Bào ngư bố mẹ khi sinh sản là một thuyền gổ dài khoảng 3,5m, rộng 1m và chiều cao mực nước trong thuyền là 1,5m. Trên thuyền có chia nhiều ô, xung quanh có nhiều lỗ bọc lưới để cho nước lưu thông nhưng ngăn không cho ấu trùng ra ngoài. Sau khi chuẩn bị xong thì mang đến bãi biển nước sạch để bắt đầu cho sinh sản.
-
Tuyển chọn bố mẹ và cho sinh sản: chọc các cá thể khoẻ mạnh, sinh trưởng nhanh, không bị dị tật và tuyến sinh dục thành thục (dựa vào màu sắc). Lấy tế bào sinh dục kiển tra dưới kính hiển vi. Trứng chín hình tròn rời rạc và có thể nhìn thấy nhân, tinh trùng vận động mạnh khi cho vào môi trường nước. Sau khi tuyển chọn xong đưa bố mẹ vào các ô thuyền với tỉ lệ 2-3 cái/1 đực. Trong các ô thuyền nước lưu thông và điều kiện môi trường nước sạch sẽ, có hàm lượng oxy hòa tan cao sau một thời gian ngắn Bào ngư sẽ đẻ. Thường xuyên theo dõi nếu Bào ngư sinh sản xong chúng ta vớt bố mẹ ra khỏi các ô thuyền sau đó chuyển thuyền đến nơi ương (điều kiện môi trường ổn định và ít sóng gió hơn).
-
Ương ấu trùng: theo dõi quá trình phát triển phôi, khi xuất hiện ấu trùng phù du chúng ta cần cung cấp thêm các loài tảo Silic, tảo Giáp làm thức ăn cho ấu trùng. Khi xuất hiện ấu trùng diện bàn chúng ta thả giá thể vào. Giá thể thường dùng là đá sỏi hoặc các loại giá thể khác, trước khi thả giá thể vào giá thể nên được rửa sạch. Khi xuất hiện ấu trùng bò lê thì chúng ta cho rong mơ non vào cho ấu trùng ăn
-
Chăm sóc: trong quá trình ương thường xuyên theo dõi và duy trì nhiệt độ từ 28-30oC. Nồng độ muối 30%o và pH là 7,5. Cần chú ý ở giai đoạn ấu trùng hình thành nắp vỏ phải giữ môi trường ương thật ổn định, nếu không ấu trùng sẽ không trãi qua được giai đoạn mất nắp vỏ và ấu trùng sẽ chết.
-
Vận chuyển giống: dụng cụ dùng vận chuyển chủ yếu là thùng gổ với kích thước F=45-50cm, cao 30-40cm. Mật độ vận chuyển khoảng 100 con/thùng. Trong quá trình vận chuyển phải thay nước và giữ cho Bào ngư không bị chồng lên nhau, nêu Bào ngư bám vào nhau sẽ làm bít lỗ hút nước của con bên dưới, Bào ngư sẽ bị chết.