KỸ THUẬT NUÔI TÔM CÀNG XANH (Macrobrachium rosenbergii) TRÊN RUỘNG LÚA |
|
PGs. Ts. Nguyễn Thanh Phương, Ts. Trần Ngọc Hải, Ts. Trần Thị Thanh Hiền, Ths. Đặng Thị Hoàng Oanh |
|
|
Lời tựaMùa lũ năm 2000, mùa lũ lớn nhất trong 40 năm qua ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, đã gây thiệt hại nghiêm trọng ảnh hưởng nhiều đến đời sống của gần 5 triệu dân trong vùng, trong đó, đáng kể nhất là thiệt hại về nông nghiệp và rất nhiều nông hộ đang phải đương đầu với những khó khăn trong các hoạt động canh tác sau lũ, đặc biệt là sự thất thu của các hộ nuôi thủy sản. Đáp ứng lời kêu gọi giúp đỡ khắc phục lũ của Chính phú Việt Nam và Ủy Ban Nhân Dân các tỉnh An Giang, Cần Thơ và Đồng Tháp, Tổ chức Lương - Nông (FAO) đã hỗ trợ kịp thời cho các hộ nông dân nghèo và bị thiệt hại nặng nhất ở 3 tỉnh nêu trên. Hoạt động chính của chương trình cứu trợ khắc phục sau lũ của FAO là cung cấp lượng cá giống cho các nông hộ bị thiệt hại nhằm giúp họ nhanh chóng phục hồi công ăn việc làm. Trong khuôn khổ hoạt động của chương trình hỗ trợ khắc phục sau lũ của FAO ở tỉnh An Giang (có tên gọi là “chương trình hỗ trợ khẩn cấp sau lũ nhằm phục hồi hoạt động nuôi thủy sản ở An Giang - TCP/VIE/0168”), một loạt tài liệu khuyến ngư giới thiệu về các mô hình nuôi thủy sản đa dạng được áp dụng phổ biến ở Đồng bằng sông Cửu Long sẽ được xuất bản và phân phát miễn phí cho nông dân. Tài liệu về “Kỹ thuật nuôi tôm càng xanh, Macrobrachium rosenbergii trên ruộng lúa” này là một trong 7 tập được FAO và Trường Đại học Cần Thơ biên soạn và in ấn từ nguồn kinh phí trong chương trình. Hy vọng rằng tài liệu này sẽ đem lại những thông tin hữu ích cho bà con nuôi tôm, cá nhằm tăng năng suất nuôi, hạn chế được dịch bệnh, kiểm soát được chất lượng nước trong ao nuôi đồng thời cải thiện đời sống cho nhiều người dân ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. |
1. Giới thiệu Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) là loài có giá trị kinh tế cao và có thể nuôi trong nước ngọt. Nguồn tôm giống thường có sẵn trên thị trường. Người nuôi có thể thu con giống từ tự nhiên hoặc mua tôm giống nhân tạo từ các trại sản xuất tôm giống. Đa số nông dân có ít diện tích đất sản xuất và canh tác chủ yếu là lúa. Mô hình nuôi tôm trong ruộng lúa sẽ tạo điều kiện cho những hộ nông dân sản xuất nhỏ nâng cao thu nhập mà không làm ảnh hưởng đến năng suất lúa. Như hình trên ta thấy, tôm có thể sống trong ruộng lúa vụ hè thu. Đây gọi là hệ thống lúa-tôm kết hợp. Một cách khác, bạn có thể sản xuất lúa vụ đông xuân và nuôi tôm trên ruộng trong vụ hè thu. Cách này gọi là hệ thống nuôi luân canh. |
|
||||||||||||||
Bảng 1: Lịch canh tác |
|||||||||||||||
2. Các phương pháp canh tác Để tiến hành canh tác lúa-tôm, cần thực hiện các bước sau: Bước 1: Chọn nguồn tôm giống Bước 2: Ương tôm bột lên tôm giống Bước 3: Chuẩn bị ruộng lúa trước khi thả tôm Bước 4: Chuẩn bị thức ăn cho tôm giống Bước 5: Thả tôm giống và nuôi đến kích cỡ thương phẩm |
|
||||||||||||||
Bước 1: Chọn nguồn tôm giống Có hai nguồn tôm giống: tôm giống tự nhiên và tôm giống nhân tạo (từ các trại sản xuất giống, gọi là tôm bột). Đối với nguồn tôm giống tự nhiên, ta có thể mua từ những ngư dân dùng lưới đẩy hoặc lưới kéo để đánh bắt tôm ở những vùng nước lợ hoặc nước ngọt, và có thể thả trực tiếp vào ruộng lúa. Đối với nguồn tôm giống nhân tạo, các trại giống ở Việt Nam có thể cho đẻ dễ dàng và luôn có sẵn con giống, thường ở giai đoạn tôm bột. Khi mua tôm bột, ta cần phải dưỡng chúng trong ao ương đến khi chúng đạt được kích cỡ tôm giống thì mới thả nuôi thịt. |
|||||||||||||||
Vòng đời của tôm càng xanh Tôm càng xanh trưởng thành sống trong các sông, kênh, rạch, ao, hồ nước ngọt. Đến mùa sinh sản, chúng di cư ra vùng nước lợ, cửa sông để đẻ và ấu trùng phát triển và biến thái thành tôm bột sống trong môi trường nước lợ. Sau đó, chúng di chuyển ngược dòng vào vùng nước ngọt và sinh sống đến khi trưởng thành. |
|||||||||||||||
Vòng đời tôm càng xanh |
|||||||||||||||
Bước 2: Ương tôm bột2.1. Chuẩn bị khu vực ương tôm Đào mương có chiều rộng 3-4 m và sâu 1-1,5 m để làm khu vực ương tôm bột. Xung quanh mương cần có bờ bao để tránh tôm lên ruộng trong giai đoạn này. Với diện tích 1.000 m2 nuôi tôm thịt thì cần ao ương có diện tích 50-60 m2. 2.2 Chuẩn bị mương thả tôm bột Mương phải được dọn sạch và phơi khô 2-3 ngày, sau đó, tiến hành diệt tạp. Đây là khâu rất quan trọng trong quá trình dọn ao ương tôm. Có thể dùng dây thuốc cá để diệt cá tạp với liều lượng 3-4 g/m2 và bón vôi sống (CaO) 100-150 g/m2. Sau 1-2 ngày, lấy nước vào qua lưới lọc đạt mức nước 0,8-1 m. Tôm càng xanh tăng trưởng bằng cách lột xác. Khi lột xác, chúng thường ẩn trốn để tránh địch hại. Vì vậy, nên thả chà tre xuống mương để tạo nơi ẩn nấp cho tôm. 2.3 Chuẩn bị sàng ăn Khung sàng ăn có dạng hình vuông, mỗi cạnh dài 0,8 m, được làm bằng tre hoặc thanh sắt. May lưới có mắt lưới cỡ 1 mm vào khung và dùng sợi dây nối 4 góc của khung như hình trên. Sàng ăn dùng để kiểm tra tình hình sử dụng thức ăn của tôm. 2.4. Cách thả tôm và cho tôm ăn - Mật độ thả tôm bột trong ao ương thường là 50 con/m2. - Vận chuyển tôm vào lúc sáng sớm hoặc buổi chiều khi trời mát. - Thả nổi bao đựng tôm trong mương khoảng 30 phút để nhiệt độ nước trong bao và ngoài mương bằng nhau. Sau đó, mở bao và để tôm từ từ bơi ra ngoài. Sau khi thả tôm ngày hai, bắt đầu cho tôm ăn. Người nuôi nên dùng thức ăn công nghiệp bởi vì chế biến thức ăn có chất lượng tốt cho tôm bột rất khó khăn. Hơn nữa, giai đoạn này tôm còn nhỏ nên chi phí mua thức ăn cũng không nhiều. Từ ngày thứ 10 trở đi, có thể cho tôm ăn bổ sung bằng các loại mực, cua, ốc, cá tạp hấp chín. Lượng thức ăn tối thiểu cần thiết cho tôm được trình bày trong bảng 2, nhưng đây chỉ là số liệu tham khảo. Trong thực tế, ao thường bị đục và tôm là loài ăn chậm nên chúng thường không thể kiếm được tất cả các hạt thức ăn. Do đó, một số người nuôi thường cho ăn với lượng nhiều hơn nhu cầu thực tế của đàn tôm. Cách cho tôm ăn thường là rải đều thức ăn trong ao ương, cứ cách 3 giờ cho tôm ăn một lần (4 lần/ngày). Bảng 2: Lượng thức ăn tối thiểu cho 10.000 tôm mỗi ngày
2.5. Điều chỉnh lượng thức ăn Lượng thức ăn nên được điều chỉnh hợp lý bằng cách quan sát sàng ăn. Đặt sàng ở 4 góc ao trước khi cho tôm ăn. Kiểm tra sàng sau khi rải thức ăn khoảng 1 giờ và trước lần cho ăn tiếp theo. Nếu không còn thức ăn trong sàng thì tăng lượng thức ăn, ngược lại, nếu thức ăn vẫn còn trong sàng thì giảm lượng cho ăn. Bước 3: Chuẩn bị ruộng để nuôi tôm thịt 3.1. Thiết kế ruộng nuôi Diện tích ruộng nuôi lớn hay nhỏ, tùy vào diện tích tích đất của nông hộ, có thể từ 0,3-1 ha. Nếu muốn nuôi tôm kết hợp với trồng lúa cùng một lúc thì phải xây dựng mương bao. Đào mương có chiều rộng 3-4 m, sâu 0,8-1 m xung quanh ruộng. Đa số người dân Việt Nam sử dụng diện tích mương chiếm khoảng 20-25% tổng diện tích ruộng. Bờ ruộng rộng 2-3 m và cao 0,6-0,8 m. Trên bờ, người ta thường rào lưới để ngăn chặn sự thất thoát của tôm trong mùa lũ. Mỗi ruộng nuôi nên có cống cấp và cống thoát nước riêng để tiện cho việc trao đổi nước. Nếu muốn canh tác lúa tôm luân canh trong vụ đông và vụ hè thì phải nâng cao bờ bao. Có thể không cần đào mương nhưng phải nâng cao bờ ruộng lên 1 m để đảm bảo mức nước trong ruộng đạt 0,5-0,6 m. 3.2. Chuẩn bị khu thả tôm giống Trước hết, dọn sạch mương và cày ruộng để loại rơm rạ và cỏ rác. Sau đó, diệt cá tạp bằng dây thuốc cá với liều lượng 3-4 g/m2 và bón vôi 100-150 g/m2. Sau 1-2 ngày, lấy nước vào qua lưới lọc đạt mức nước 0,5-0,6 m. Dùng chà tre khô thả xuống mương để tạo nới trú ẩn cho tôm, tốt nhất diện tích thả chà nên chiếm 5% diện tích mặt nước nuôi tôm. |
|
||||||||||||||
Bước 4: Chuẩn bị thức ăn cho tôm giống Có hai điểm cần lưu ý: (1) chọn nguồn thức ăn thích hợp và (2) phải dùng sàng cho ăn để tiện kiểm tra lượng thức ăn và sức khỏe của tôm. Thức ăn dùng để nuôi tôm giống có thể là thức ăn công nghiệp, thức ăn tự chế hoặc thức ăn tươi sống như cua, ốc và cá tạp. Thức ăn công nghiệp có chất lượng cao nhưng đắt tiền. |
|
||||||||||||||
Thức ăn tự chế thì rẻ hơn nhưng khâu chuẩn bị thức ăn tốn nhiều thời gian. Có thể tham khảo công thức chế biến như trong bảng 3, và cách chế biến thức ăn như sau: Nấu bột mì thành dạng hồ và cho các nguyên liệu khác vào. Trộn đều hỗn hợp và ép bằng máy thành dạng sợi. Phơi trong bóng râm đến khi thức ăn khô cho vào túi bịt kín và giữ ở nơi khô ráo. Thức ăn tươi sống có thể được đánh bắt hoặc mua từ chợ. Thức ăn này phải được nấu chín trước khi cho ăn. Nếu kết hợp ba loại thức ăn trên, chi phí thức ăn sẽ giảm. |
|||||||||||||||
Bảng 3: Các nguyên liệu để chế 10 kg thức ăn
|
|||||||||||||||
Bước 5: Nuôi tôm thịt 5.1. Thả tôm giống vào ruộng nuôi Có thể dùng lưới để thu và vận chuyển tôm giống từ ao ương sang ruộng nuôi tôm thịt. Nếu con giống được mua từ nơi khác, nên dùng một giai lưới đặt trong mương, thả tôm vào giai và để khoảng 1 ngày. Làm như vậy, những con tôm yếu bị chết sẽ được loại bỏ và chỉ thả vào ruộng những con tôm khỏe. Mật độ tôm thả tối đa là 3-5 con/m2. |
|||||||||||||||
5.2. Cách cho ăn Đặt 4 sàng ăn cách đều nhau trong mương (hoặc ở 4 góc ruộng trong hệ thống nuôi luân canh). Rải thức ăn đều khắp mương (hoặc dọc theo bờ trong ruộng nuôi luân canh) 2-3 lần/ngày (ví dụ: lúc 6 giờ, 10 giờ và 16 giờ chiều). Sau khi cho ăn một giờ, quan sát sàng để xem tôm có ăn hết lượng thức ăn có trên sàng hay không. Sau 3-4 giờ, bắt vài con tôm kiểm tra độ trong của cơ thể để biết thức ăn có còn trong ống tiêu hóa hay không. Từ đó, điều chỉnh lượng thức ăn kịp thời: nếu tôm nhanh chóng ăn hết thức ăn thì tăng lượng cho ăn, nếu thức ăn vẫn còn trên sàng hoặc tôm chưa tiêu hóa hết thức ăn trong ruột thì giảm lượng cho ăn. Vì vậy, bảng 4 trên chỉ là bảng hướng dẫn về tỉ lệ cho ăn. Lượng cho ăn thực tế phải được điều chỉnh hằng ngày bằng cách quan sát sàng ăn và ống tiêu hóa của tôm như đã trình bày ở trên. |
Kiểm tra sức ăn thức ăn của tôm (Hình trên dạ dày tôm rỗng – tôm đói. Hình dưới dạ dày tôm đầy thức ăn – tôm no) |
||||||||||||||
Bảng 4: Lượng thức ăn cho 1.000 tôm/ngày
|
|||||||||||||||
Để duy trì chất lượng nước tốt, nên thay 20-30% thể tích nước theo thủy triều, rồi dùng vôi nông nghiệp (CaCO3) rải khắp mương hoặc ruộng nuôi với liều lượng 5-10 g/m2. 5.4. Sử dụng hóa chất Không nên dùng thuốc trừ sâu trong ruộng lúa nuôi tôm kết hợp vì thuốc trừ sâu sẽ rất độc đối với tôm. 5.5. Thu hoạch tôm Sau 4-5 tháng nuôi, tôm lớn có thể thu tỉa bằng chài hoặc xà ngom (đó). Sau 6-8 tháng nuôi, người ta thường thu hoạch toàn bộ tôm để chuẩn bị cho vụ lúa Đông-Xuân. Có thể dùng lưới kéo lúc nước ròng thu 50-60% số tôm trong ruộng. Số còn lại được thu khi tháo cạn mương hoặc ruộng nuôi. Thời gian thu hoạch có thể kéo dài 5-10 ngày. Tôm càng xanh được đem bán dạng tươi sống hoặc ướp đá với tỉ lệ 1:2 (1 phần tôm, 2 phần nước đá). |
|
|
||||||||||||||||||
|
|
||||||||||||||||||
5.7. Kiểm tra sức khỏe của tôm Nên tiến hành kiểm tra sức khỏe tôm thường xuyên để kịp thời phát hiện bệnh và áp dụng các biện pháp xử lý thích hợp (xem bảng dưới đây). Xác định bệnh tôm
|