Nguồn tin: Idsariya Wudtisin & Claude E Boyd. 2006. Physiscal and chemical characteristics of sediments in catfish, freshwater prawn and carp ponds in Thailand. Aquaculture Reasearch. Vol 37 (12) 1202 – 1214 2006.
Tóm tắt
Mẫu đất được thu từ 42 ao cá trê (Clarias hybrid), 40 ao nuôi tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) và 18 ao nuôi cá chép (Puntius spp.) tại Thái Lan. Kết quả phân tích cho thấy rằng tuổi của ao nuôi (1-30 năm) không ảnh hưởng đến tính chất lý hoá học của ao nuôi.
Trong ao cá chép độ dầy của tầng F+S và độ chặt của tầng S lớn hơn trong các ao cá Trê và tôm càng xanh (P<0,05). Có thể do lớp bùn đáy trong ao nuôi cá Trê và tôm càng xanh được sên vét thường xuyên hơn so với các ao nuôi cá chép. Hàm lượng TOC (carbon tổng số), TOM (carbon hữu cơ) và TN (tổng đạm) trong ao nuôi cá chép cũng lớn hơn trong các ao nuôi cá trê và tôm càng xanh (P<0,05). Một vài ao có TOM vượt mức 3%, tỉ lệ C/N không khác nhau giữa các loài nuôi (P>0,05). TP (tổng lân) và thành phần phospho khác trong đất cao nhất ở các ao nuôi cá trê và thấp nhất trong các ao nuôi tôm càng xanh, nồng độ S2- trong đất cũng cho kết quả tương tự. Không có sự khác biệt về hàm lượng các yếu tố dinh dưỡng chính yếu trong đất, nhưng có sự tương quan giữa về sự thay đổi của các yếu tố trong đất của các đối tượng nuôi. Đánh giá chất lượng đất cần kết hợp đánh giá trên nhiều yếu tố vật lý và hoá học. Quản lý bùn đáy ao được thực hiện tại Thái lan như là phơi khô giữa các mùa, cày xới và sên vét định kỳ, những biện pháp này giúp duy trì chất lượng nền đáy ao tốt hơn.
Người dịch: Ks. Huỳnh Trường Giang (This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.), BM Thủy sinh học Ứng dụng, Khoa Thủy sản, Đại học CầnThơ.