Nguồn tin: Md Arshad Hossain, Lipi Paul. Low-cost diet for monoculture of giant freshwater prawn (Macrobrachium rosenbergii Demand) in Bangladesh. Aquaculture Research. Vol 38 (3) 232 – 238 2007.
Tóm tắt
Thí nghiệm được thực hiện trong 3 tháng với 12 ao thí nghiệm, mỗi ao có diện tích 30m2 cho ăn với thức ăn có chi phí thấp. Ba khẩu phần cho ăn có hàm lượng đạm 30% được phối trộn khác nhau và được kí hiệu (i) T1: bột thịt và bột xương, (ii) T2: bánh dầu thực vật, (iii) T3: dầu vừng và cám để thay thế bột cá. Một loại thức ăn thương mại (Starter III) được kí hiệu là T4 (khẩu phần tham khảo). Mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần. Tôm giống Macrobrachium rosenbergii có trọng lượng 2,90+/- 0,21g thả với mật độ 40.000 giống/ha (4 con/m2). Tôm được cho ăn 3 lần/ngày, lượng thức ăn cho ăn tuỳ theo trọng lượng thân, 2 tháng nuôi cuối cùng lượng thức ăn cho ăn tương ứng 10% và 5%. Các ao có sục khí vào buổi tối trong suốt thời gian thí nghiệm. Sự biến động của các chỉ tiêu chất lượng nước là nhiệt độ dao động từ 28,9 – 32,5oC, DO từ 5,1 – 8,1mg/L và pH từ 6,4 – 7,7.
Kết quả cho thấy rằng tăng trọng của tôm cho ăn khẩu phần T1 cao hơn nghiệm thức cho ăn khẩu phần T2 và T3 (P<0,05), nhưng so với cho ăn khẩu phần T4 (khẩu phần tham khảo) thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Hệ số chuyển hoá thức ăn (FCR) ở khẩu phần T1 (2,21) thấp hơn khẩu phần T4 (2,96) (P<0,05). Tỉ lệ sống thay đổi từ 68% đến 78%, khẩu phần T1 và T4 đạt tỉ lệ sống cao hơn T2 và T3. Sản lượng tôm thu hoạch từ 921 – 1.428 kg/ha và nghiệm thức cho ăn khẩu phần T1 có năng suất cao hơn có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Kết quả cho thấy rằng khi cho ăn khẩu phần T1 cho lợi nhuận cao nhất. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy khẩu phần 20% bột cá, 10% bột thịt và bột xương, 15% bánh dầu thực vật, 15% dầu vừng, 35% cám gạo, 4% mật đường và 1% premix khoáng và vitamin có thể ứng dụng nuôi tôm càng xanh thương phẩm trong ao.
Ks. Huỳnh Trường Giang (This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.), BM Thủy sinh học Ứng dụng, Khoa Thủy sản, Đại học CầnThơ.